Thứ Bảy, 27 tháng 7, 2013

Rưng rưng đón Thầy về “quê hương thứ hai”

Ngày 29/11/2012, chúng tôi chia tay Thầy ở Hội thảo Quốc tế Việt Nam học lần thứ IV với lời hẹn sẽ đón Thầy ngày 19/12, để sau đó 1 ngày, thầy bắt đầu lên lớp môn học Lý thuyết nghiên cứu Khu vực cho lớp học viên khóa 8, một thời khắc biểu “đều như vắt chanh” suốt 5 năm nay. Nhưng đến sáng 18/12, bít tất chúng tôi bàng hoàng, ngơ ngác khi nhận được tin dữ từ Tokyo: Thầy đột ngột ra đi ngày 17/12, khi chuẩn bị tới tham dự một buổi tọa đàm khoa học.

Nhà khoa học đáng kính

Giáo sư Sakurai Yumio

Người mà chúng tôi đều gọi “Thầy” một cách trìu mến là Giáo sư Sakurai Yumio. Ông là nhà nghiên cứu hàng đầu về lịch sử Việt Nam và Đông Nam Á, nhà Việt Nam học lừng danh ở Nhật Bản và trên thế giới.

Ông bắt đầu bén duyên với nghiên cứu về Việt Nam từ năm 1965, nhưng chủ yếu phê chuẩn các tài liệu bằng tiếng Anh, tiếng Pháp. Đến năm 1985, khi là Tùy viên văn hóa Đại sứ quán Nhật tại Hà Nội, ông mới có nhịp tiếp xúc với người Việt và kể từ đó bắt đầu chuyên tâm nghiên cứu về Việt Nam. Năm 1987, ông nhận bằng Tiến sĩ Sử học tại Đại học nhà nước Tokyo với đề tài Tìm hiểu sự thành lập làng xã Việt Nam. Sau 5 năm, năm 1992 ông tiếp kiến bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Nông nghiệp với đề tài Lịch sử khai phá thủy lợi trên đồng bằng sông Hồng.

Kể từ đó Giáo sư Sakurai đã dành hồ hết thời kì, trí óc và tâm sức để xây dựng thành công các chương trình, dự án nghiên cứu về thủy lợi, nông nghiệp, hợp tác xã điển hình ở châu thổ sông Hồng của Việt Nam theo hướng khu vực học.

Ông đã có công rất lớn trong việc giúp đỡ chính phủ Việt Nam phát triển đời sống kinh tế, giáo dục, giao thông ở các vùng nông thôn, miền núi. Bằng những minh chứng khoa học và tình với Việt Nam, ông đã thuyết phục được chính phủ Nhật Bản và các tổ chức phi chính phủ tương trợ 100% kinh phí cho các dự án nghiên cứu của Việt Nam, cấp một số học bổng thường niên cho lưu học sinh và nguồn vay vốn ODA cho Chính phủ Việt Nam sau này.

Trong số các chương trình, dự án nghiên cứu mà giáo sư máu nóng nhất phải kể đến chương trình nghiên cứu làng cổ Bách Cốc (Vụ Bản, Nam Định). Đây là công trình nghiên cứu của tập thể học giả Nhật Bản dưới sự chủ trì của GS. Sakurai được giới khoa học quốc tế và Việt Nam đánh giá là một trong những nghiên cứu tiêu biểu về nghiên cứu khu vực theo định hướng liên ngành.

Chương trình kéo dài liên tục trong thời kì 14 năm (từ năm 1994 đến 2008) với sự hợp tác của trọng điểm Nghiên cứu Việt Nam và Giao lưu văn hóa và tiếp theo là Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển, với số lượng chuyên gia, nghiên cứu sinh, sinh viên Nhật Bản tham gia lên tới khoảng hơn 300 lượt người. Rất nhiều tài liệu, di vật của người Việt cổ như lăng tẩm, văn bia, trống đồng, đồ đá, nhiều đặc trưng văn hóa về một làng Việt cổ điển hình vùng đồng bằng sông Hồng đã được phát hiện qua chương trình nghiên cứu nức danh này.

Cũng qua chương trình nghiên cứu Bách Cốc, Giáo sư đã đào tạo được nhiều thế hệ nhà Việt Nam học người Nhật Bản, những người hiện đang giữ vai trò cốt lõi trong nghiên cứu Khu vực học và Việt Nam học tại nhiều trường đại học và trọng điểm nghiên cứu nổi danh ở Nhật Bản.

Giáo sư Sakurai Yumio thuyết trình trong một hội thảo khoa học

Giáo sư Sakurai Yumio luôn tự hào nói rằng: Làng Bách Cốc đã trở nên “đứa con thứ hai” của mình. Chúng tôi cũng nhiều dịp được đi cùng Giáo sư xuống Bách Cốc và khôn cùng kinh ngạc khi từ người già đến trẻ nhỏ đều quen và vô cùng thân thiết với Giáo sư như người trong nhà, một thái độ không dễ thấy đối với vùng nông thôn Bắc Bộ.

Từ năm 2004, cùng các nhà nghiên cứu Nhật Bản, ông chủ trì dự án nghiên cứu lịch sử thị dân Hà Nội nhằm phân tách quá trình biến đổi cư dân qua các thời đoạn trong lịch sử của Hà Nội hiện đại và dự án nghiên cứu lao động địa phương và chính sách khu công nghiệp mới của Việt Nam.

Giáo sư Sakurai Yumio còn là một chuyên gia xây dựng các mối quan hệ hữu nghị gắn bó giữa hai chính phủ Nhật -Việt và giữa các trường đại học ở Việt Nam và Nhật Bản, trong đó đặc biệt phải kể đến là Đại học nhà nước Hà Nội với Đại học nhà nước Tokyo, Đại học Kyoto, Viện nghiên cứu Đông Nam Á của Đại học Kyoto...

Năm 1999, ông là người trước hết đứng ra vận động thành lập Văn phòng giao thông của Đại học Quốc gia Tokyo tại Đại học nhà nước Hà Nội có hạn 10 năm. Văn phòng là sự kết nối giữa hai đại học và các cơ quan nghiên cứu nhằm giúp đỡ các nhà khoa học, lưu học trò Nhật Bản muốn nghiên cứu về Việt Nam và sinh viên Việt Nam muốn nghiên cứu về Nhật Bản. Thành công của chương trình nghiên cứu tại Bách Cốc và một số chương trình khác chính là kết quả hoạt động của Văn phòng giao thông này.

Giáo sư Sakurai Yumio trong một lần đưa sinh viên đi thực địa

Người thầy thân thiết

Năm 2004, Giáo sư Sakurai Yumio được tặng danh hiệu Giáo sư danh dự của Đại học Quốc gia Hà Nội, một danh hiệu vô cùng cao quý dành cho nhà khoa học quốc tế có những cống hiến xuất sắc cho sự nghiệp nghiên cứu khoa học và đào tạo, đặc biệt cho Việt Nam và Đại học Quốc gia Hà Nội. Giáo sư hết sức tự hào vì danh hiệu này, cứ mỗi lần sang Việt Nam, chúng tôi lại nhìn thấy chiếc huy hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội được cài trên ngực áo vest của ông.

Nhiều lứa học sinh của ông nhớ lại, vào buổi lên lớp trước nhất cho học viên Việt Nam, câu trước tiên Giáo sư tự giới thiệu: "Tôi là Sakurai Yumio, giáo sư Đại học Tokyo và Tiến sĩ danh dự Đại học nhà nước Hà Nội".

Được nghe đi nghe lại câu tự giới thiệu này, cứ mỗi lần tôi lại ứa nước mắt và tự hỏi vì sao có những người yêu Việt Nam đến thế! tình ái của thầy luôn đầy ắp trong những giờ giảng hết sức sinh động về lý thuyết và phương pháp hiện đại về Khu vực học, một môn học còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Ái tình của Thầy cũng đầy ắp khi hướng dẫn sinh viên đi khảo sát hết địa phương này đến địa phương khác với bổn phận và ngọn lửa ham mê của một nhà khoa học đích thực.

Có lẽ buổi trước nhất, ai cũng ngạc nhiên về khả năng tiếng Việt của Thầy. Thực tế Thầy nói tiếng Việt không dễ nghe, nhưng thầy biết rất nhiều từ, đặc biệt là những từ chuyên môn. Thầy kể rằng chưa một lần Thầy cầm sách học tiếng Việt nhưng với tình yêu và niềm đam mê nghiên cứu Việt Nam Thầy đã tự học bằng đọc sách. Dần dần tiếng Việt ngấm sâu vào người và trở thành ngôn ngữ giao tế độc nhất của Thầy với người Việt.

Chúng tôi "ngợi ca" nhau câu nói đùa của Thầy: Người Việt Nam có hai loại, người sáng ý và người không thông minh. Tiêu chí về "người thông minh" là hiểu tiếng Việt của Sakurai. Còn không hiểu thì thuộc nhóm kia... Thế là sinh viên ai cũng "cố" làm vờ vĩnh "hiểu". Những chỉ tới buổi học thứ hai, quờ quạng mọi người đều hiểu thật, hiểu nội dung bài giảng, hiểu phương pháp nghiên cứu, và cái hiểu rõ nhất là tấm lòng của một một vị giáo sư nặng tình với Việt Nam.

Với sinh viên, ông là người thầy đáng kính, là người bạn thân thiết

Chúng tôi chẳng thể quên được "sự cố" năm 2009, khi Thầy đang trong thời gian dạy tại Viện thì chợt nghe báo Thầy bị gẫy chân do một chiếc xe máy đâm phải khi qua đường. Tới bệnh viện, trước khuân mặt hốt hoảng của chúng tôi, Thầy ra sức an ủi, cố làm chúng tôi an lòng, nhưng lại tỏ ra băn khoăn khôn cùng khi giờ dạy cho sinh viên bị ảnh hưởng so với kế hoạch.

Thế rồi, mấy ngày sau, sinh viên được thông tin giờ học vẫn được tiếp chuyện, nhưng địa điểm chuyển từ trường vào Bệnh viện Việt Pháp. Hóa ra quá cảm động trước yêu cầu tha thiết của Thầy, Viện trưởng bệnh viện đã thu xếp một phòng học đặc biệt tại Viện cho "Bệnh nhân Sakurai" lên lớp dạy sinh viên. Từng sự việc, từng ngày, từng năm....Tình cảm của Giáo sư đối với chúng tôi cứ dày thêm, sâu thêm.

Có những lúc chúng tôi "quên" mất thầy là giáo sư nức tiếng nước ngoài, mà cứ nghĩ thầy là một người cha, người ông của chính mình.

Thơ ấu con gái Giáo sư - em Shizuho Sakurai - cho biết:

Sau khi Giáo sư mất, gia đình đã giở bản di chúc của thầy, trong đó thầy viết: “Nếu phải ra đi trên cõi đời này, tôi có một tâm nguyện là gia đình hãy hỏa thiêu và gửi một phần tro cốt của tôi sang Việt Nam. Các bạn Việt Nam hãy cho tôi xuôi trên dòng sông Hồng phù sa mát mẻ. Đây là “sơn hà thứ hai của tôi” mà suốt thế cục tôi say mê khám phá bằng một tình khoa học cháy bỏng!”.

Lúc sinh tiền Thầy thường nóit: "Những sự kiện lớn trong thế cuộc tôi đều gắn với các sự kiện lớn của Việt Nam. Tôi sinh năm 1945, năm Việt Nam giành độc lập. Tôi cưới vợ năm 1975, năm Việt Nam hoàn toàn phóng thích...".

Đất nước và con người Việt Nam luôn chờ đón Giáo sư về với “quê hương thứ hai” với những tình cảm nồng ấm nhất!

Phương Thanh