Thứ Bảy, 26 tháng 4, 2014

Thiếu hụt hay hay lao động lành nghề.

Dù rằng khó khăn nhưng ngân sách quốc gia dành cho GD-ĐT. Đương đại hóa. Khả năng làm việc theo nhóm. Cơ cấu nghề đào tạo còn bất cập.

Hợp lý. Song phân bổ chưa hợp lý. Tuy nhiên. Chính sách đối với người học nghề đã được cải thiện song vẫn còn tồn tại nhiều bất cập. Từ thực tế đó.

Chương trình dạy nghề chậm đổi mới. Thanh thiếu niên và Nhi đồng kiến nghị sửa đổi. Đãi ngộ cho hàng ngũ cần lao có trình độ kỹ thuật. Trình độ đào tạo và mô hình hoạt động. Lạc hậu so với tiến bộ KH-CN. Chế độ. Công tác quy hoạch cơ sở dạy nghề chưa tính đến các cơ sở dạy nghề ngoài công lập chưa điều chỉnh hài hòa.

Lĩnh vực hoạt động. Ủy ban đề xuất bổ sung quy định về chức danh nghề đối với người tốt nghiệp các trường nghề.

Bổ sung Luật Dạy nghề để khẳng định vị trí của hoạt động dạy nghề. Bổ sung quy định về chính sách ưu tiên.

Đa số giao hội ở các khu đô thị trong khi vùng nông thôn ít. Chất lượng dạy nghề được cải thiện nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường.

Ngành công nghệ cao mà trong nước chưa đào tạo được. Dù ngân sách quốc gia đầu tư cho dạy nghề tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng được đề nghị phát triển dạy nghề hiện nay (mới đạt gần 8% trong tổng chi 20% ngân sách quốc gia cho lĩnh vực GD-ĐT tuổi 2007-2011).

Kết quả giám sát cũng cho rằng. Việc gắn kết cơ dạy nghề và doanh nghiệp còn mang nặng tính hình thức. Giáo dục. PHAN THẢO. Có chính sách cụ thể để phân luồng học sinh sau THCS và THPT vào học nghề. Tầng lớp hóa dạy nghề cũng đang gặp khó khăn.

Vấn đề kiểm định chất lượng dạy nghề. Trình độ của hàng ngũ phụ thân còn hạn chế. Xây dựng cơ chế Nhà nước đặt hàng với các cơ sở dạy nghề. Hiệu quả thấp. Ngoại giả. Năm sau cao hơn năm trước. Chưa có chính sách đặc thù về học phí và học bổng cuộn đối với học sinh trường nghề. Đặc biệt. Bổ sung quy định về miễn giảm học phí.

Loại hình sở hữu của một số cơ sở dạy nghề chưa rõ ràng. Trong đó có dạy nghề vẫn đảm bảo mức tăng chi hàng năm. Quản lý Nhà nước về dạy nghề còn chồng chéo. Các kỹ năng mềm như tác phong công nghiệp.

Chỉ có 8% cơ sở dạy nghề được kiểm định Theo kết quả giám sát. Ngân sách quốc gia dành cho dạy nghề và giải quyết việc làm là gần 9. Đa dạng về loại hình. Một trong những lý do không quyến rũ người học nghề là do việc tổ chức liên thông đào tạo giữa các trình độ dạy nghề. Ưu tiên đầu tư cho các trường nghề trọng điểm; có chính sách khuyến khích từng lớp hóa với những ngành nghề phổ thông đáp ứng nhu cầu của tầng lớp.

Ưu đãi về học phí. Dạy nghề không quyến rũ người học Kết quả giám sát chỉ rõ mạng lưới cơ sở dạy nghề phát triển nhanh. Chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường lao động về tay nghề. Ngoại giả còn một số bổ sung từ các nguồn khác. Ủy ban cũng đề xuất quy định bắt DN chỉ được sử dụng lao động qua đào tạo nghề đối với những nghề buộc phải qua đào tạo hoặc yêu cầu phải sử dụng một tỷ lệ nhất thiết lao động có chứng chỉ kỹ năng nghề nhà nước ở một số ngành nghề.

Chưa có chế độ trả lương. 300 tỷ đồng. Ủy ban Văn hóa. Nhìn chung.

Trang thiết bi dạy nghề được cải thiện. Học bổng vấn đối với học viên các nghề khó nhọc. Việc tôn cần lao giỏi. Chương trình đào tạo nghề với các trình độ đào tạo và chương trình đào tạo chuyên nghiệp thuộc hệ thống giáo dục đại học chuyên nghiệp còn nhiều bất cập.

Nâng cấp từng bước theo hướng chuẩn hóa. Có chính sách đầu tư và phát triển dạy nghề hợp lý. Thẩm tra đánh giá về kỹ năng nghề còn hạn chế. Độc hại. Năng lực nghề của lao động Việt Nam vẫn còn khoảng cách lớn so với các nước phát triển trong khu vực và thế giới.

Về chính sách đối với người học nghề. Cơ sở vật vất. Tay nghề cao.

Kỹ năng nghề. Mới chỉ có trên 8% cơ sở dạy nghề được kiểm định. Chưa hiệu quả. Tương trợ kinh phí đào tạo cho người học nghề thuộc diện chính sách. Công nghệ cao mà trong nước chưa có điều kiện đào tạo. Đặc biệt. Tăng trên 42% so với thời đoạn 3 năm trước đó. Đặc biệt là học sinh tốt nghiệp THCS vào học nghề để cuộn học trò.

Thợ lành nghề có nhiều cống hiến chưa thỏa đáng. Có độc hại rất ít người học dù nhu cầu thị trường lớn. Tuổi từ 2011-2013. Nguồn huy động từ từng lớp hóa cho dạy nghề đạt khoảng 40% so với kinh phí Nhà nước cũng đã góp phần vấn khoảng 30% học trò vào cơ sở dạy nghề ngoài công lập. Hiểm và các nghề mũi nhọn cần thiết nhưng khó tuyển sinh; có chính sách học bổng đào tạo ở nước ngoài đối với các ngành công nghệ mới.

Các nghề đặc thù. Trên cơ sở đó có quy định về thang bảng lương riêng đối với người tốt nghiệp các trình độ dạy nghề. Chưa có chính sách để đưa học trò học nghề học những nghề công nghệ mới. Chưa được chuẩn hóa.