Vùng rung bình phân bố tản mát, không tập hợp thành vùng lớn
Giải pháp quan yếu nhất là quy hoạch dùng đất, quản trị thích ứng phù hợp với các kịch bản dâng cao mực nước biển ở mức 0,5m và 1m. Ở vùng tương đối cao, khả năng đối phó gia tăng, riêng vùng biển Bạc Liêu-Cà Mau tăng theo thời kì. Vùng cao tụ họp ở một số khu bảo tồn có đa dạng sinh vật học cao ở đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng. ). Minh Nguyệt (TTXVN).
Với tầm nhìn chiến lược và triết lý ứng phó khôn ngoan với biến đổi khí hậu, quỹ đất phải để dành cho việc di dân vùng đất thấp, sẽ bị ngập, cũng như phát triển các công trình liên quan … Về khoa học công nghệ, với phương châm “tiên đoán nhằm ngăn chặn và chủ động thích nghi,” Việt Nam cần đẩy mạnh nghiên cứu các giải pháp cứng và mềm để hạn chế tác động bất lợi, tận dụng dịp nếu có của biến đổi khí hậu.
Mật độ đối tượng bị thương tổn cao tụ hợp ở các vùng có nhiều khu công nghiệp, đô thị, du lịch, diện tích đất ngập nước, rừng ngập mặn lớn, mật độ dân cư đông. Mức độ hiểm nguy do dâng cao nước biển phụ thuộc rất lớn vào địa hình, địa hình thấp thì nguy hiểm cao và địa hình cao thì nguy hiểm thấp hơn.
Dựa vào đặc thù vùng kinh tế-sinh thái và mức độ tổn thương, quy hoạch dùng bền vững tài nguyên-môi trường nên chia thành 6 vùng với các ưu tiên phát triển phù hợp. So sánh mức độ thương tổn theo kịch bản phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2015 và 2020, có 4 vùng cơ bản. Diện tích vùng có mức độ tổn thương cao theo kịch bản nước biển dâng 1m sẽ tăng hơn 3 lần so với kịch bản 0,5m, đặc biệt tác động mạnh nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.
Vùng ven biển đồng bằng sông Hồng (Đồ Sơn-cửa Lạch Trường) nuôi trồng thủy sản, hồi phục, bảo tàng hệ sinh thái rừng ngập mặn và đất ngập nước cửa sông, cải tạo hệ thống đê biển, gian xói lở và bão lũ. Ảnh minh họa. Mức độ tổn thương cao tụ hội ở các vùng chịu tác động mạnh bởi bão, lũ lụt, xói lở, mật độ đối tượng bị tổn thương cao và khả năng đối phó thấp. [Ứng phó biến đổi khí hậu là một nhiệm vụ hàng đầu] Ở vùng thấp và làng nhàng, khả năng đối phó tầng lớp sẽ tăng, ở vùng nhàng nhàng sẽ chuyển một số vùng từ mức cao về nhàng nhàng.
Tinh hoa truyền thống của văn minh trị thủy, văn minh lúa nước của người Việt Nam cũng cần được nghiên cứu và ứng dụng, đối phó thích hợp từng vùng, miền về điều kiện tự nhiên, thiên tai, trình độ phát triển kinh tế -xã hội, nguồn lực. Vùng ven biển Nam Trung bộ (mũi Hải Vân-mũi Hồ Tràm) có cảng, trọng điểm nghề cá, các khu kinh tế ven biển, du lịch biển. Hai vùng đồng bằng sông Cửu Long và sông Hồng rất quan yếu với phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh lương thực nhưng bị thương tổn cao nhất, thành ra phải có chiến lược thích nghi khi nước biển dâng cao.
Phần cứng là giải pháp công trình như xây dựng và khai triển các trạm quan trắc, mô hình dự báo biến động tài nguyên, môi trường, chừng độ tổn thương theo các kịch bản biển đổi khí hậu, nước biển dâng với độ tin tưởng.
Các giải pháp đối phó với thiên tai, nước biển dâng, biến đổi khí hậu cũng cần đưa vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chương trình, dự án phát triển của từng vừng hợp với mức độ thương tổn ngày nay và cả trong tương lai.
Diện tích chừng độ hiểm nguy do các tai biến cao và tập trung nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng. /. Vùng ven biển Móng Cái-Đồ Sơn ưu tiên hệ thống cảng biển, du lịch sinh thái như các dự án phục hồi và bảo tồn các hệ sinh thái đặc biệt (rừng ngập mặn, san hô, cỏ biển. "Trốn chạy khôn ngoan" Theo giáo sư Mai Trọng Nhuận, dựa vào các dự báo, quy hoạch "chủ động", dạo các “giải pháp mềm” để giảm mức độ tổn thương, là cách "trốn chạy khôn ngoan".
Vùng ven biển Tây Nam bộ (Gành Rái-Hà Tiên) nuôi trồng thủy sản, các khu du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng biển. Thời đoạn 2015-2020, vùng có mức độ hiểm nguy cao kéo dài hơn, do tác động của bão có cường độ và tần suất tăng.
Vùng ven biển Bắc Trung bộ (cửa Lạch Trường - mũi Hải Vân) với du lịch kỳ quan địa chất, khu công nghiệp ven biển, cảng biển.
(Nguồn: TTXVN) Dự báo mức độ tổn thương Giáo sư Mai Trọng Nhuận cho rằng việc đánh giá và dự báo mức độ thương tổn cần dựa vào cả tai biến và các yếu tố tự nhiên-tầng lớp gồm động đất, trượt lở, đổ lở, xói lở bờ biển, bồi tụ biến đổi luồng lạch, bão và lũ lụt, dâng cao mực nước biển, ô nhiễm môi trường nước và trầm tích.
Vùng cao sẽ chuyển một số vùng ven biển từ mức cao xuống tương đối cao và trung bình.
Nước lũ dâng cao ngập mái nhà tại huyện Hồng Ngự (Đồng Tháp). Vùng tương đối cao chiếm phần lớn hải phận ven bờ. Đây không phải là vấn đề mới nhưng cần phải có tầm nhìn xa, trong đó có vấn đề quy hoạch dùng đất nói riêng, dùng tài nguyên và phát triển kinh tế-tầng lớp nói chung.
Vùng ven biển Đông Nam bộ (mũi Hồ Tràm- Gành Rái) phát triển các khu công nghiệp, khai khoáng hoạt động trong lĩnh vực dầu khí và cảng biển, du lịch sinh thái. Nước biển dâng là nguyên tố tác động mạnh mẽ đến việc gia tăng mức độ tổn thương tài nguyên, môi trường.
Các quy hoạch phải dựa vào đánh giá và dự báo mức độ tổn thương để chủ động đối phó với biến đổi khí hậu, nước biển dâng cũng như các tai biến, hơn là tiêu cực như giờ. Vùng thấp ở vùng đất ven biển cách bờ từ 8-10 km. # Cao… Phần mềm là giải pháp phi công trình, cần vận dụng linh hoạt từ đánh giá, dự báo, quy hoạch đến tuyên truyền nâng cao nhận thức cho người dân.
Đến năm 2020, diện tích các vùng tương đối cao và cao giảm dần do các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội làm tăng khả năng ứng phó của hệ thống tự nhiên-tầng lớp. Khả năng đối phó cao tập trung ở vùng có địa hình cao, hệ thống thành phố, cơ sở hạ tầng tương đối mạnh và trình độ dân trí cao.